Lịch trình tu học Phật giáo

các chú tiểu tại NhậtTăng đoàn tại LàoMột ni sư tại Siem Reap, Campuchia

Buddha (Phật) chỉ người đã thức tỉnh nhờ sự sáng suốt và nỗ lực của họ, mà không cần ai khác chỉ cho biết giáo pháp tu luyện (Sanskrit; Pali dhamma; "cách sống đúng"). "Trở thành Phật" tức là một người đã giác ngộ, tức đã tìm ra con đường trừ bỏ mọi khổ đau,[10] ở trong trạng thái "không học thêm nữa".[11][12][13] Phật nghĩa là một người đã nắm chân lý, đã đạt đến một trình độ khai sáng hoàn thiện nhất có thể tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức thế giới mà không cần ai chỉ bảo.

Phật có hai mức độ giác ngộ:

  • Độc Giác Phật (sa. pratyeka-buddha), là người giác ngộ, nhưng không có đủ khả năng giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ.

Phật giáo không xem Tất-đạt-đa Cồ-đàm là vị Phật duy nhất. Kinh Phật đã nói đến rất nhiều vị Phật khác từng xuất hiện trong quá khứ, tại các thế giới khác nhau. Phật giáo không có một đấng tối cao phán xét hay có toàn quyền sinh sát. Mỗi người tự làm chủ số phận của mình bằng Nhân Quả do Nghiệp lực của mình tạo ra, không một ai ngoài bản thân có thể phán xét, cứu vớt, xóa tội cho mình. Chúng sinh hoàn toàn có thể tự đạt đến quả vị Phật, tương đương với Phật qua câu nói của Phật: "Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành", bất kể chủng tộc, địa vị xã hội. Phật tính bình đẳng trong tất cả chúng sinh, bất cứ ai cũng có khả năng trở thành Phật nếu tích lũy đủ thiện nghiệp và nỗ lực tu luyện.

Theo giáo lý nguyên thủy thì một hành giả đạt bồ-đề, giác ngộ khi người đó đạt được một cái nhìn vạn vật như chúng đích thật là (Như thật tri kiến) tức là đạt đến chân lý, với một tâm thức thoát khỏi phiền não và si mê. Trong các loại phiền não thì tham ái và vô minh, cũng được gọi là si, là những loại nặng nhất. Tham, sân và si được gọi chung là ba chất độc (tam độc), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến tâm thức. Vì phiền não vây phủ tâm thức nên hành giả gắng sức tiêu diệt chúng, và để tiêu diệt được thì người đó phải gắng sức đạt được tri kiến chân chính bằng cách thực hành bát chính đạo.

Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo tam học, cụ thể là tu học về giới (tăng thượng giới học), định (tăng thượng định học) và tuệ (tăng thượng huệ học). Trước hết hành giả phát lòng tin (tín, sa. śraddhā) vào tam bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị của mình (cư sĩ, sa-di hoặc tỉ-khâu). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là thiền định. Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (tứ thiền). Một số cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó là tứ niệm xứ, Tứ vô lượng tâm, tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (cũng được gọi là Tứ Phạm trú). Cách thiền định ở cấp này được phân làm hai loại: 1. Chỉ là phương pháp lắng đọng tâm, và 2. Quán là cách thiền quán lập cơ sở trên chỉ, tức là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành tựu công phu Quán. Phần thứ ba của tam học là tuệ học, lập cơ sở trên thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây có thể là tứ diệu đế, nguyên lý duyên khởi hoặc ngũ uẩn. Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về giải thoát, biết là mình đã đạt giải thoát. Phiền não của hành giả này đã được tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu) và hành giả ấy đạt tứ thánh quả A-la-hán.

Song song với cách tu hành theo Tam học trên ta cũng tìm thấy phương cách theo 37 Bồ-đề phần.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phật giáo http://media.johnwiley.com.au/product_data/excerpt... http://www.weiwuwei.8k.com/ http://www.berzinarchives.com/islam/history_afghan... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/83184 http://www.daophatngaynay.com/vn/kinh-dien/van-hoc... http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/giao-ph... http://books.google.com/books?id=GEKd4iqH3C0C&dq=h... http://books.google.com/books?id=v0Rpvycf1t0C http://www.quangduc.com/lichsu/72bophai02.html http://www.saigon.com/~anson/ebud/mfneng/mind0.htm